Gươm đã tuốt ra nơi miền đất xa xôi- Những ước mơ tan vỡ của Miền Nam (Phần 4)

Gươm đã tuốt ra nơi miền đất xa xôi- Những ước mơ tan vỡ của Miền Nam (Phần 4)
12/15/2021

KBCHNTV thông báo: Kênh youtube của KBCHNTV được chuyển về  https://youtube.com/channel/UCv9DjIrfwPI2NL1FzGTlwfA/
https://www.youtube.com/channel/UCUYHCuct76okHEUw0epaGtg (Ca sĩ Lệ Hằng)

 

CHƯƠNG 4: “ĐẠI DIỆN MỌI KHUYNH HƯỚNG QUỐC GIA”

 

aaa

George J. Veith 

Trần Quang Nghĩa dịch

 

Dương Văn Minh Soạn Thảo một Lộ Trình Mới

 Nền cai trị cứng rắn của w Diệm đã gắn kết đất nước lại với nhau, nhưng Đệ Nhất Cộng Hòa quá cố đã thả sống những nhóm chính trị và tôn giáo trước đây bị áp bức ở miền Nam. Chính quyền quân sự mới thình lình đổi đầu với chủ nghĩa bè phái nổi dậy, một sự trỗi dậy sẽ xé nát bộ áo xã hội mong manh của miền Nam. Cùng lắm, phe nhóm chính trị miền Nam chỉ là các mảnh vá của những quyền lợi xung đột nhau, những đấu đá thuộc tính cách, và thiên kiến vùng miền, mọi thứ trước đây được vá víu bằng ý chí và bàn tay sắt của Diệm. Cái nắp kín mà Diệm đã bịt chặt lên hoạt động chính trị của miền Nam giờ đã bật ra, những khối quyền lực cũ lại trỗi dậy và bắt đầu thao túng. Các chính đảng Quốc gia (Đại Việt, VNQDĐ…), những rạn nứt tôn giáo, chia rẽ sắc tộc, và kỳ thị vùng miền từ lâu âm ĩ lại ngoi lên, mỗi nhóm đều tìm cho mình quyền lực gây thiệt hại cho nhóm khác.

Sau khi Diệm chết, chính trị Quốc gia về bản chất trở thành hai thế giới. Thế giới thứ nhất là thế giới thực của các tướng lĩnh theo đuổi chính trị và trò chơi quyền lực của họ, và thế giới thứ hai là một tuồng hát bi hài của đấu đá nội bộ phe phái, một ảo cảnh của những liên minh, mặt trận, và đảng phái, kết hợp như các amip và rồi lại chia tách thành những cơ quan mới. Bản năng ly tâm của các thành viên ưu tú Quốc gia miền Nam cho thấy thật bất trị và gần như đang hai tay dâng miền Nam cho kẻ thù Cộng sản của họ.

Bốn năm chuyển tiếp giữa Đệ Nhất Cộng Hòa của Diệm và Đệ Nhị Cộng Hòa của Thiệu được đánh dấu bằng sự bất hoà dân sự nghiêm trọng, làm phá sản quá trình thử nghiệm nền cai trị dân sự, làm xấu đi tình hình kinh tế, và cuộc chiến nhanh chóng lan rộng. Xét cuộc đời ngắn ngủi của nó – từ tháng 11 1963 đến tháng 1 1064 – chính quyền của Minh ít được các học giả xem xét. Phần đông đều viết rằng các tướng lĩnh đường như chưa được chuẩn bị tốt để trị vì và đất nước trôi dạt vô mục đích trong khi người Công sản tranh thủ được sức mạnh ở nông thôn. Cách phân tích này rút từ kết quả nghèo nàn của những thành tựu trong thời trị vì ngắn ngủi của hội đồng quân nhân lẫn lời kết án của Nguyễn Khánh, người đang ra sức biện minh cho vụ phản đảo chính của mình vào 30/1/1964.

Một phân tích sâu hơn về chế độ của Minh, tuy vậy, phát lộ rằng nó cũng đã khởi đầu những chương trình quan trọng. Minh tìm cách tái cơ cấu công cuộc bình định và chính sách đối ngoại của Diệm để xây dựng một bản sắc chính trị miền Nam bao hàm hơn. Bằng cách vươn tay đến những đoàn thể khác nhau mà Diệm đã đàn áp hoặc phớt lờ, Minh bắt đầu một thay đổi chấn động trong cách trị vì ở miền Nam: một nỗ lực rèn đúc một phiên bản của Việt Nam về dân chủ nhằm tranh thủ sự tán thành của nhân dân đối với chính quyền Saigon, một chính quyền sẽ kéo dài cho đến khi tái thống nhất đầy đủ. Tất cả các  nỗ lực này sẽ ảnh hưởng đến những nỗ lực tương lai của những nhà quản trị tiếp theo.

MINH LẬP MỘT LỘ TRÌNH MỚI

Là người đã đưa miền Nam thoát khỏi nhà độc tài bị khinh bỉ, Tướng Dương Văn Minh là nhân vật chính của thời điểm lịch sử. Ông nhanh chóng thành lập Hội đồng Quân nhân Cách mang (HDQNCM) để cai trị đất nước, nhưng phong cách trị vì của vị tướng lĩnh cao cấp ngay lập tức làm gia tăng những căng thẳng trong HĐQNCM. Vào ngày 9/11, Đại tá Đỗ Mậu báo tin cho William Colby của CIA rằng hội đồng nhanh chóng chia thành hai nhóm. Đó là một thông điệp người Mỹ sẽ nghe rất thường trong tháng 11. Sự chia rẽ vừa có tính thủ tục vừa có tính thế hệ. Nhóm lão thành gồm Minh, Đôn, và Lê Văn Kim, cùng với Thủ tướng mới thành lập Nguyễn Ngọc Thơ, hướng đến phương pháp luận hành pháp kiểu Pháp có tính hợp pháp cao. Nhóm thứ hai gồm Khiêm, Khánh, và Thiệu muốn chính quyền mới sử dụng quyền lực của sắc lệnh để đưa ra những quyết định nhanh chóng được hậu thuẫn bởi hành động mạnh tay nhằm giải quyết các vấn đề của quốc gia. Việc quyết nghị nhanh chóng bởi nhà lãnh tụ theo sau là hành động, một nét tính cách quân sự, không phải là đặc tính của các định chế dân chủ, vốn đòi hỏi tranh luận và rồi thỏa hiệp để đạt được những quyết định về chính sách. Sự căng thẳng giữa hai quan điểm trong một quốc gia đang chiến đấu cho sự sống còn sẽ phương hại đến chính trị Saigon cho đến phút cuối cùng.

Nói cho đúng, Minh không tìm kiếm một chế độ độc tài quân sự. Ông hình dung một sự chuyển tiếp đến chính quyền dân sự, và ông giao cho Lê Văn Kim thiết kế một thực thể chính trị hậu đảo chính. Trong mùa hè 1963, Kim bí mật gặp gỡ Bùi Diễm và Phan Huy Quát để thiết kế một chính quyền dân sự hậu đảo chính. Kim quen biết cả hai người từ thời gian trước đây làm việc chung trong chính quyền Bảo Đại. Quát là người bắc và một bác sĩ đã phục vụ  với chức bộ trưởng quốc phòng cho Cựu Hoàng, và Kim và Bùi Diễm đã làm việc chung dưới quyền Quát. Sau Hiệp định Geneva, Đại Việt đã ép buộc Bảo Đại chọn Quát làm thủ tướng thay vì Diệm. Đó là sự khinh thị Diệm không bao giờ quên. Sự hiềm thù giữa Diệm và Quát càng nóng lên vào ngày 29/4/1960, khi Quát và 17 nhà lãnh tụ dân sự lão thành, gọi chung là Nhóm Caravelle, cho lưu hành một bản tuyên ngôn yêu cầu Diệm cải cách chính quyền. Thoạt đầu Diệm phớt lờ nhóm trí thức và cựu bộ trưởng này, nhưng sau ngày đảo chính tháng 11 1960 thất bại, ông tống giam nhiều người đã ký tên trong bảng tuyên ngôn. Là một thành phần của phe miền bắc trong Đảng Đại Việt, Quát và Bùi Diễm không tìm kiếm độc tôn về quyền lực cho Đại Việt mà hy vọng một chính quyền đoàn kết dựa trên hiến pháp bao gồm mọi phần tử không cộng sản. Trốn tránh mật vụ của Diệm, họ họp với một đảng viên  Đại Việt khác, Đặng Văn Sung, người đã phác họa cho một viên chức Mỹ nỗ lực của nhóm nhằm phối hợp các đoàn thể khác nhau. Khối này bao gồm “Đảng Đại Việt, VNQDĐ… giáo phái Hòa Hảo. Sung cho rằng mặc dù việc thành lập một mặt trận thống nhất giữa các nhóm chính trị từ xưa đến nay là điều bất khả, nhưng ông đã gặt hái những tiến bộ nhất định trong việc tập hợp các nhóm này lại với nhau vì không khí hiện giờ rất là thuận lợi.”

Biết thời mạt vận của Diệm đã đến,  Sung  “đưa ra những đề xuất chính trị cho các sĩ quan cao cấp trong trường hợp có thay đổi chế độ.” Sung cảm thấy rằng “phản ứng của giới quân sự đối với bản chất tổng quát của các đề xuất này chắc chắn thuận lợi mặc dù một quyết định cuối cùng về chi tiết và cấu trúc của một chính quyền mới đã không được đưa ra.”

Nhóm đề xuất với Kim rằng Quát cầm đầu đất nước với chức thủ tướng. Mặc dù tất cả các vận động trước đảo chính nhằm chắp vá một chính quyền đoàn kết, Minh phạm một sai lầm chủ yếu là không đếm xỉa việc làm của họ. Thay vì chọn Quát, ông chọn người bạn cũ của mình và là phó tổng thống của Diệm, Nguyễn Ngọc Thơ. Kim không biết việc Thơ đã cấu kết với Minh Cồ trước cuộc đảo chính để định hình nội các. Theo con trai của Kim, cha anh trở về nhà rõ ràng bực bội sau thông báo của Minh Cồ, càu nhàu rằng bổ nhiệm cho phó tổng thống của Diệm “không phải là cách mạng” mà chỉ làm sống lại chủ nghĩa vùng miền. “Minh trong tận thâm tâm không muốn bổ nhiệm một người bắc (Quát) làm thủ tướng miền Nam,” con trai của Kim nhận xét. “Ông cũng đặc biệt không ưa thích những thành viên Đại Việt miền bắc như Quát, mà thích những đảng viên Đại Việt gốc miền Nam hơn. Cha tôi nghĩ việc chọn Thơ là một sai lầm lớn.

Hầu hết người Việt chia sẻ phản ứng của Kim, vốn cho rằng sự lựa chọn trên bốc mùi chủ nghĩa thân hữu. Tuyên bố lập tức dấy lên mối nghi ngờ trong tâm trí nhiều người Việt; đây có phải là cách mạng, như các vị tướng tuyên bố, hay chỉ là một vụ chiếm đoạt quyền lực  của Minh và lực lượng vũ trang? Tệ hơn, Minh thất bại trong việc làm sáng tỏ lý do mà ông chọn Thơ. Chỉ đến cuộc phỏng vấn 1968 Minh mới giải thích ông đã chọn Thơ để quản lý nền kinh tế và bộ máy hành chính mà ông biết mình không khả năng xử lý. “Chúng tôi những quân nhân không rành về các vấn đề kỹ thuật, và chúng tôi nghĩ cần phải duy trì tính liên tục của hành chính. Thơ nhận trách nhiệm chỉ trong một năm.”

Thơ sau đó làm lỗi lầm của Minh càng tệ hơn vì không nói ra vai trò của chính mình trong cuộc đảo chính. “Nếu vai trò của Thơ đã được phơi bày ngay sau khi Diệm bị hạ bệ, việc bổ nhiệm ông hẳn sẽ được dân chúng miền Nam chào đón,” Nguyễn Ngọc Huy nói, “nhưng vì việc ấy không được tiết lộ, người dân bất mãn khi thấy viên chức cao cấp nhất của Diệm trở thành người lãnh đạo chính quyền mới.” Trong chuyến trở về Saigon từ Pháp vào giữa tháng 11, Huy thuyết phục Minh đính chính sai lầm của mình và tiết lộ việc Thơ có dính líu với vụ đảo chính nhưng đã quá muộn. Trong vòng một tháng, sứ quán Mỹ báo cáo rằng Thơ “không được lòng nhiều người dân Việt, họ cho rằng ông yếu đuối, không có lập trường vững vàng, và có quan điểm vùng miền. Những thành viên dân sự trong nội các, đa số gốc gác miền Nam, có năng lực chuyên môn nhưng thiếu kỹ năng chính trị và quản trị để có thể định hình những chính sách hoặc gây ảnh hưởng đến giới quân sự.” Cũng tệ không kém, là một người hành chính được Pháp đào tạo, Thơ không mềm dẻo và không muốn đưa ra những quyết định nhanh chóng. Khi kết hợp với tác phong lè phè trong công việc của Minh, đúng là một hỗn hợp chết người.

Đã lật đổ Diệm, Minh giờ cần sự giúp đỡ tái tạo hình chính sách miền Nam. Minh muốn sát cánh với người Mỹ, nên ông lập tức nhờ sự  cố vấn của CIA trong việc thành lập chính quyền mới. Tuy nhiên, Lodge “cũng nhanh chóng không kém đáp rằng loại khải đạo đó không thể cho được.” Ngài đại sứ muốn chế độ mới phải có vẻ độc lập với ảnh hưởng quá lộ liễu của người Mỹ, vì thế ông kiểm soát gắt gao văn thư Mỹ gửi đến Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Các đại sứ trước đây cho phép CIA tiếp xúc rộng rãi với các viên chức cao cấp, nhưng Lodge hạn chế vai trò của cục đối với những vấn đề liên quan đến tình báo và bình định.

Đó là một lỗi lầm to lớn; Minh và HĐQNCM cần sự cố vấn của Hoa Kỳ một cách cấp thiết trong công cuộc xây dựng một chính quyền mới. Hơn nữa, sự khắt khe cửa Lodge đặt ra một tiền lệ cho cả Mỹ và miền Nam; trong khi CIA và quân đội, và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), tất cả cơ quan đó đều sở hữu tính chuyên nghiệp thiết yếu trong lãnh vực tương ứng của họ, thì đại sứ Mỹ hiện thời (và tương lai) trở thành phát ngôn nhân duy nhất cho hành pháp Hoa Kỳ, đường liên thông trực tiếp của tổng thống Hoa Kỳ đến nhà lãnh tụ Việt Nam. Đó là một bài học mà các vị tướng thuộc nằm lòng: không có cương lĩnh chính trị hoặc đảo chính nào có thể xảy ra mà không tham vấn hoặc được sự tán thành của đại sứ Mỹ. Vậy mà Lodge không có kinh nghiệm về nội tình miền Nam để đưa ra lời cố vấn chính trị có tính thuyết phục mà Minh cần đến. Tệ hơn nữa, tính khí hống hách của Lodge, tất nhiên, không cởi trói cho miền Nam khỏi trách nhiệm cho các động thái sai lầm của họ, nhưng quyết định của ông về việc hạn chế truy cập khiến cho Mỹ đánh mất cơ hội quý giá hỗ trợ chế độ sau Diệm và đóng góp trực tiếp cho vẻ lề mề bề ngoài của hội đồng quân nhân. Nó cũng khiến ông mù mờ về âm mưu phản đảo chính của Khánh cho đến khi quá muộn.

Mặc dù có sự bất hòa về việc sát hại Diệm-Nhu và phong cách trị vì của ông, Minh bắt đầu một loạt chuyển dịch chính sách để lật ngược nền cai trị độc tài của Diệm. Minh tìm cách tranh thủ sự hậu thuẫn rộng rãi cho chế độ mới, không chỉ trong số quân nhân và dân chúng miền Nam mà còn với Hoa Kỳ. Vào ngày 5 tháng 11, ông thông báo việc thành lập một chính quyền mới. HĐQNCM, gồm tất cả 12 tướng lĩnh, sẽ vẫn tại vị. Minh được bổ nhiệm quốc trưởng và đồng thời chủ tịch HĐQNCM, và Đôn được chọn làm bộ trưởng quốc phòng. HĐQNCM giải tán nội các Diệm, bãi bỏ Quốc hội vừa được bầu cử gần đây, và xếp vào xó hiến pháp tháng 10 1956.

Trong khi chính quyền mới nặng sự tham gia của quân đội, Minh tự tuyên bố mình điều hành một chế độ lâm thời, nhưng không phải một chế độ quân sự vĩnh viễn. HĐQNCM thông báo rằng, nếu có thể, họ sẽ phục hồi chế độ dân sự trong vòng 6 tháng. Để hậu thuẫn cho lời cam kết đó, vào ngày 6/11, Thủ tướng Thơ ra sắc lệnh 2 thành lập Hội đồng Nhân sĩ, một bộ phận cố vấn có nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp và tổ chức bầu cử một Quốc hội mới. Tìm cách tập kết mọi đảng phái trong môi trường chính trị miền Nam, Hội đồng bao gồm những cá nhân “đại diện cho mọi khuynh hướng Quốc gia và tuổi tác.” Tìm kiếm một tình trạng cân bằng vùng miền, Minh chọn Trần Văn Văn, một điền chủ người nam giàu có, làm tổng thư ký, và Bùi Diễm, một người bắc, làm phó cho Văn. Được chính thức ra mắt vào ngày 23/11, Hội đồng không nắm quyền, nhưng đó là một nỗ lực còn phôi thai để truyền nhập tính dân chủ vào Việt Nam. Tổng thống Diệm đã lập ra một ủy ban tương tự để soạn thảo hiến pháp nền Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng ông ngán trở những nỗ lực của nó khi loại bỏ vài mệnh đề mà ủy ban đưa vào nhằm hạn chế quyền lực của tổng thống. Diệm, như Hồ Chí Minh, chủ yếu cai trị bằng sắc lệnh, vì hiến pháp được ban hành năm 1956 gần như trao mọi quyền lực cho ngành hành pháp. Rủi thay, các tướng lĩnh quyết định đích thân đánh giá mỗi thành viên triển vọng do đó mãi đến cuối tháng 12 Hội đồng Nhân sĩ mới ra mắt. Minh cũng đã phóng thích hàng trăm sinh viên và Phật tử bị cảnh sát tóm gọn sau các vụ đột kích chùa chiền hồi tháng 8. Những người khác cũng được tha ra trong đó có những tù nhân chính trị dài hạn, như lãnh tụ Đại Việt Hà Thúc Ký và VNQDĐ Vũ Hồng Khanh. Hành động của Minh đáng ca ngợi nhưng cũng có những hậu quả không mong đợi. Trong tinh thần hồ hởi, Minh vô tình trả tự do cho hàng chục đặc vụ gián điệp Cộng sản, những tên do thám đã bị bắt nhưng không cung khai. Bao gồm trong số này có Vũ Ngọc Nhạ, một người bắc vào nam và lân la vào gia đình Diệm. Cuối cùng Nhạ sẽ trở thành thân cận của Tổng thống Thiệu, và việc phá vỡ ổ gián điệp của Nhạ tại Dinh Độc Lập vào năm 1969 là xì căng đan công khai tệ hại nhất trong cuộc chiến.

Tiếp theo Minh tìm cách loại ra những tay chân thân tín của Diệm ở mọi cấp độ trong chính quyền. Ông bắt đầu thanh lọc tỉnh trưởng và quận trưởng, một lối vệ sinh nhà cửa gây tổn hại đến nền hành chính địa phương từ tỉnh xuống đến ấp. Như việc loại trừ các thành viên của Đảng Baath ở Iraq sau khi Sadam Hussein bị lật đổ vào năm 2003, Minh quét sạch nhiều viên chức dân sự và quân sự có định líu đến Cần Lao hoặc Diệm. Ông biện minh cho hành động của mình bằng cách thông báo với các viên chức Mỹ rằng nhiều quan chức địa phương mắc tội tham nhũng. Dù đúng hay không, như việc kết tội một người là Cộng sản, đó là cách hiệu quả để loại trừ đối thủ. Vì nguyên tắc cai trị của Diệm Nhu là tân-quan liêu – một cách tiếp cận từ trên xuống, theo hướng trung ương tập quyền mà người Mỹ gọi là quản lý vi mô – Việc Minh thay thế toàn bộ các viên chức, có năng lục hoặc lề mề, cùng với việc thiếu hụt sự chỉ đạo từ Saigon, đã làm tê liệt hành chính nông thôn.

Tuy nhiên, không có gì gây rối loạn trong HĐQNCM hơn là sự trở lại của thành phần cựu sĩ quan, nhiều người từ Pháp. Việc họ hồi hương mở lại những rạn nứt cũ. Lùm xùm đầu tiên xảy ra khi Nguyễn Chánh Thi và Phạm Văn Liễu, những sĩ quan tham gia vụ đảo chính 1960 đang sống lưu vong ở Cao Miên, xin phép hồi hương. Vào ngày 8/11, Minh chấp nhận lời yêu cầu của họ. Vào ngày 16/11, quân đội tái biên chế hai người vào lại chức tước cũ, khiến Khiêm khó chịu, vì ông là người đã chống đối quyết liệt vụ đảo chính 1960. Minh sau đó giao Thi làm phó tư lệnh cho Khánh ở Quân đoàn I.

Một trong những di dân trở về từ Paris là Vương Văn Đông, lãnh tụ cuộc đảo chính 1960. Thi và Liễu nổi giận, vì họ tin chắc ông ta làm việc cho tình báo Pháp, một lời vu cáo vẫn còn gây xôn xao. Một ví dụ khác là Dương Văn Đức, bạn cùng lớp với Khiêm tại trường ở Đà Lạt. Đức nhẹ dạ, nhưng ông đã giúp Minh tiểu trừ dân quân Hòa Hảo vào năm 1952. Diệm đã ban thưởng Đức bằng cách phong ông làm một trong các vị tướng đầu tiên của mình, nhưng ông và tổng thống đã tranh cãi về hậu quả của cuộc binh biến 1960. Như những người Việt khác đã từng bất mãn với Diệm, Đức nghỉ hưu và sang Paris. Vào ngày 8/11, ông quay về Saigon và được phục hồi cấp bậc thiếu tướng cũ. Một vận động gây tranh cãi khác trong HĐQNCM là yêu cầu của Trần Văn Đôn cho rằng người bạn cũ của mình, Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ, được phép trở lại hàng ngũ quân đội giữ một chức vụ cao cấp. Vỹ cũng đã phục vụ trong quân đội Pháp với Đôn và Kim. Diệm đã tống khứ Vỹ ra khỏi xứ khi Vỹ hậu thuẫn cho Trung tướng Hinh vào 1954-55. Đôn xác nhận rằng vào đầu tháng 12 1963, Đức đến thăm ông để phản đối việc Vỹ trở lại, tuyên bố rằng Vỹ còn làm cho Pháp. Đức bảo Đôn rằng “Vỹ là một tên phản cách mạng và rằng nếu Vỹ được phép trở lại quân đội, Đức sẽ từ chối phục vụ trong quân đội chúng ta.”

HĐQNCM phớt lờ tuyên bố của Đức và đồng ý chấp thuận, nhưng khi Vỹ yêu cầu cho Trần Đinh Lan một người tham gia chủ chốt khác đã từng làm việc cho Hinh để chống Diệm, cũng được về quê hương, phản đối bùng nổ. Mọi người đều tin rằng Lan là một tên phản quốc làm việc cho tình báo Pháp. Tuy nhiên, Vỹ đích thân bảo lãnh cho Lan, và sau một cuộc điều tra, Đôn đánh điện cho Lan vào ngày 29/12 cho phép y trở về. Thịnh nộ, Đức lập tức bắt đầu kích động các tướng lĩnh khác rêu rao rằng cho phép Vỹ, Đông, và Lan trở về cho thấy là Đôn và Kim đang âm mưu với người Pháp để trung lập hóa miền Nam. Bất mãn trước sự trở về của các ông tướng trước đây và mối ngờ vực vừa được khuấy lên liên quan đến lòng trung thành thực sự của Đôn và Kim phát sinh nhiều chống đối trong quân đội đối với các tướng lĩnh cao cấp. Vậy mà trong lúc việc đấu đá trong quân đội đang sôi sục ở hậu trường, thì biện pháp cấp bách nhất vẫn còn là cuộc chiến ở nông thôn.

BÌNH ĐỊNH – CHƯƠNG TRÌNH KIẾN HÒA VÀ LONG AN

Phát triển chiến lược tiến hành chiến tranh thích đáng luôn đứng đầu trong lối suy nghĩ của đồng minh, nhưng câu hỏi hắc búa lớn là định vị chính xác trọng tâm của người Cộng sản. Bằng cách nhận diện và tiêu diệt tiêu điểm của sức mạnh kẻ thù, họ hy vọng đánh bại chiến lược “chiến tranh giải phóng dân tộc” của Cộng sản. Tuy nhiên, chiến tranh này đa chiều, một mô hình không dễ dàng hiểu được bởi các sĩ quan được đào tạo một cách quy ước trong miền Nam hoặc các trường quân sự Mỹ. Sự xung đột Việt Nam đặt ra một thách thức duy nhất trong đó người Cộng sản có nhiều trọng tâm, những trọng tâm mà ưu tiên của chúng thay đổi khi cuộc chiến tiến triển. Nhiều trọng tâm tỏ ra khó đánh bại, trong đó có các căn cứ địa ẩn nấp của địch ở Lào và Cao Miên và hành lang tiếp tế được biết dưới tên Đường mòn Hồ Chí Minh. Trong môi trường này, một số sĩ quan Hoa Kỳ không quy ước nhìn thấy việc xây dựng các định chế chính trị và kinh tế ở miền Nam là phương cách tốt nhất để phòng ngừa cho toàn dân tránh xa chủ nghĩa Mác hơn là ra sức đánh bại đám du kích bằng sức mạnh quân sự. Họ xác quyết rằng người Cộng sản không có trọng tâm mà phương tiện quân sự hợp lý có thể đánh bại, nhưng bọn quan liêu cố thủ ở Washington và Saigon phớt lờ những lời kêu gọi này. Cuộc tranh luận nảy, thường được gọi là chiến lược chính trị chống lại quân sự để đánh thắng cuộc chiến, sẽ dậy sóng nhiều năm liền. Cuối cùng các đồng minh nhận ra rằng thành công đòi hỏi tích hợp cả thành tố quân sự lẫn chính trị, nhưng tiến trình này, được biết dưới tên bình định nông thôn, sẽ trải qua nhiều giai đoạn thất thường trước khi đạt được cách tiếp cận tổng thể vào cuối năm 1968.

Công cuộc bình định của Diệm liên quan đến việc di dời dân chúng cũng như tái phân phối tài sản. Mục tiêu của ông là tái định cư dòng người ồ ạt miền bắc tị nạn xuống miền Nam cộng thêm di dời dân cư từ những vùng nhân mãn đến các khu vực hoang hoá ở nông thôn. Nỗ lực đầu tiên của ông, gọi là Chương trình Phát triển Nông thôn, chuyển dân chúng đến những vùng đất mới. Mục đích là tạo vành đai an ninh chống lại sự xâm nhập của Cộng sản và chế ngự những vùng nổi dậy trước đây bằng dòng người định cư được cho là thân với chính quyền, như người bắc di cư chẳng hạn. Ông nhắm đến vùng Cao nguyên Trung phần dọc biên giới Lào, lãnh thổ Hòa Hảo trong khu vực phía tây Sông Cửu Long giáp với Cao Miên, và những khu vực chưa có người ở phía nam Châu thổ. Bằng cách mở ra những vùng đất dân cư thưa thớt, những ấp mới sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách gia tăng xuất khẩu gạo, và những mặt hàng khác như gỗ, hải sản, và cao su.

Với sự leo thang các cuộc tấn công của Cộng sản vào năm 1960, Diệm quay ưu tiên binh định hoá sang lĩnh vực an ninh, nhất là trong vùng đồng bằng Cửu Long, nơi dân cư phân tán so với những làng ấp tập trung hơn ở những khu vực trung tâm và phía bắc miền Nam. Ông quyết định gom dân cư Châu thổ sát gần nhau hơn trong những khu định cư mới được xây dựng gọi là Làng Nông nghiệp. Những thị trấn mới nhỏ này sẽ chứa trường học, bệnh xá, và những tiện ích khác, và với số dân cư co cụm nhau, việc phòng thủ sẽ tương đối dễ dàng hơn. Chương trình làng nông nghiệp cũng thất bại, do quản lý nhà nước kém, thiếu kinh phí, và các cuộc tấn công khủng bố của Cộng sản. Vào mùa thu 1960, Diệm hủy bỏ chương trình này, và ông cùng với ông em bắt đầu tìm kiếm một chiến lược bình định mới.

Vào đầu năm 1961, Diệm và Nhu đã thiết lập được một kế sách khác. Dựa vào tập hợp các quan niệm chống nổi dậy của người Anh đã thử nghiệm thành công ở Mã Lai, học thuyết kibbutz của Israel, và các tư tưởng bình định của người Pháp, họ bắt tay xây dựng chương trình “Ấp Chiến lược”. Những cộng đồng nông thôn sẽ quy về những ấp kiên cố để phòng thủ đám du kích của MTGP. Nhu vừa là người thiết kế vừa là người giám sát. Theo Đại tá Hoàng Văn Lạc, phụ tá chính của Nhu trong chương trình Ấp Chiến lược, chương trình này nhằm đảo ngược cục diện quân sự với một quan niệm cách mạng mới thay vì tái tổ chức quân đội theo một quan niệm quy ước đã lỗi thời. Về chiến lược, để chia tách người cộng sản ra khỏi dân chúng, về thể chất lẫn tinh thần, “nhờ đó lấy đi khỏi địch các cơ chế hậu thuẫn mà họ cần để sống còn. Đối với nhà Ngô, tuy nhiên, chương trình ấp chiến lược không chỉ là vấn đề an ninh; bình định là phương tiện chủ yếu để cài đặt cách mạng chính trị của họ, để thiết lập, theo Lạc, “công lý xã hội và dân chủ…để phục hưng các truyền thống làng xã… và hiện đại hóa đời sống nông thôn.” Gom dân chúng vào trong những ấp kiên cố là cơ hội hoàn hảo để tái tạo những hệ thống tín ngưỡng cá nhân trong khi đồng thời tước khỏi bọn du kích hệ thống hậu thuẫn. Diệm và Nhu muốn khởi động nhanh chóng và hoàn thành chương trình ấp chiến lược vào cuối 1963. Để đạt được tiến độ khẩn trương này phải sử dụng lao động cưỡng chế, khiến giới nông dân bất bình. Nhiều quan sát viên bên ngoài lên án hoàn toàn chương trình tái định cư cưỡng bách vào ấp chiến lược, đặc biệt đối với những ấp ở những khu vực quanh Saigon và vùng Châu thổ. Mặc dù có sự bất mãn, kế hoạch cũng đạt được một số thành quả, nhất là tại những tỉnh miền trung phía nam Đà Nẵng, nhưng tiến triển ở vùng Châu thổ thì không đồng đều.

Mặc dù có những khiếm khuyết về cách tiếp cận liên kết đối với việc bình định, những nỗ lực của người Cộng sản cũng không phải là không có sai lầm. Họ cũng sử dụng lao động cưỡng chế để phát triển căn cứ trong những vùng do họ kiếm soát. Hơn nữa, chính sách thuế của Cộng sản, việc gọi nghĩa vụ bắt buộc, hôn nhân cuỡng bách, và các chiến thuật khủng bố thường xua dân làng về phía chính quyền. Dù vậy, điều phân biệt cách tiếp cận của MTGP và khiến nó hiệu quả hơn là cách nó phối hợp những trận đột kích quân sự với đấu tranh chính trị. Ở mức độ cơ bản nhất, họ tìm cách đánh bại quân đội Diệm và cùng lúc tranh thủ tình cảm của nhân dân. Người Cộng sản luôn nhìn chiến tranh như một cuộc chiến trên ba vũ đài chính: chính trị, quân sự và địch vận (vận động bình sĩ miền Nam quay về phe họ hoặc buông súng). Trong những năm sau này, ngoại giao trở thành một nhân tố bổ sung, nhưng sự phối hợp có tính chiến lược này, chính sách tổng thể này, đã khiến người Cộng sản thành công dễ dàng.

Sau cuộc đảo chính, Bộ Chính trị nhìn ra một cơ hội to lớn để thắng cuộc chiến. Họ thúc đẩy MTGP gia tăng tấn công tại nơi mà họ xem là điểm yếu nhất của chính quyền miền Nam, cấu trúc tại làng xã và thôn ấp. Bộ Chính trị ra lệnh MTGP hủy diệt “toàn bộ mạng lưới Ấp Chiến lược của địch, để giải phóng những vùng chủ yếu… để chúng ta có thể thay đổi cán cân sức mạnh giữa chúng ta và địch.” Trong khi chiến thắng Ấp Bắc tháng giêng năm ngoái được sử dụng để thuyết phục bộ đội MTGP là họ có thể đánh bại trực thăng và thiết giáp, Bộ Chính trị cần hủy diệt cánh tay khác của Diệm, Ấp Chiến lược. Sau vụ đảo chính, người Cộng sản nhanh chóng lợi dụng và tràn ngập nhiều ấp chiến lược chưa bị họ đánh sập trong mùa hè. Điều này đặc biệt đúng ở tỉnh Long An, tỉnh chủ chốt vùng Châu thổ ngay phía nam và phía tây Saigon. Kết quả Long An sẽ trở thành thực địa cho  Minh duyệt lại chương trình bình định của Diệm.

Phát triển mô hình thích đáng cho việc bình định nông thôn vẫn còn là một công việc đang tiến triển. CIA, chẳng hạn, đã thử nghiệm vài chương trình chống nổi dậy. Một chương trình đạt được thành công khiêm tốn với các bộ tộc vùng cao ở Cao nguyên Trung phần. Được biết dưới tên Nhóm Dân Phòng, các nhóm đã được CIA huấn luyện và trang bị  để phòng thủ làng mạc địa phương. Một thử nghiệm sử dụng các nhóm đội địa phương để chiếm lại lãnh thổ mà MTGP đã gặt hái được tiến hành ở Tỉnh Kiến Hòa, người Cộng sản gọi là Bến Tre, trong vùng thượng lưu Châu thổ.  Là nơi sinh của MTGP và hạ tầng cơ sở Cộng sản địa điểm được vinh dự mang tên hiệu “Cái Nôi của Cách mạng.” Diệm cử một sĩ quan Việt Minh trước đây tên Trần Ngọc Châu vào đầu năm 1962 làm tỉnh trưởng mới của tỉnh lỵ phức tạp này. Như nhiều người Việt, Châu đã trốn khỏi Việt Minh vì ghê tởm sự kềm kẹp của Cộng sản. Ông gia nhập Quân đội Quốc gia phục vụ trong nhiều chức vụ khác nhau, kể cả tại Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, nơi ông và Thiệu trở thành bạn thân. Ngay khi đến nơi, Châu nhanh chóng nhận ra sự thờ ơ của dân làng đối với chính quyền. Châu quyết định thành lập các đội “Điều tra Dân tình” nhỏ, có nhiệm vụ đi khắp làng mạc để tìm hiểu thông tin về hoạt động của MTGP lẫn những việc làm tồi tệ của chính quyền. Dùng mô hình này, đội của Châu chẳng bao lâu xoay chuyển được các thắng lợi của Cộng sản trong căn cứ địa lâu đời này của MTGP. Lịch sử tỉnh Bến Tre được viết thời hậu chiến cho rằng “Từ tháng 3 1962 qua những tháng đầu của năm 1963, một cuộc đấu tranh khó khăn và ác liệt lan tràn khắp tỉnh nhằm kháng cự lại những chiến dịch càn quét của địch và chống lại nỗ lực tập trung dân chúng và xây dựng Ấp Chiến lược.” Thậm chí sau khi nhận được những chuyến tàu chở vũ khí từ miền Bắc, các lực lượng MTGP vẫn không thấy bớt căng thẳng. “Một trận chiến giằng co ác liệt nổ ra giữa lực lượng chúng ta và địch. Địch đã có thể thiết lập 129 Ấp Chiến lược trong toàn tỉnh. Kích thước vùng giải phóng của chúng ta đã thu hẹp lại. Chúng ta đang chiến đấu một trận chiến cực kỳ khó khăn để nắm chắc quyền kiểm soát nhân dân, đánh bật những càn quét của địch, phá hủy Ấp Chiến lược, và kiểm soát được làng ấp.” Dù sao đi nữa, những nỗ lực của Châu không được Minh coi là thành tựu. Nhà lãnh tụ mới của miền Nam đã từ lâu xem phương pháp “vết dầu loang” của Pháp là kỹ thuật bình định tốt nhất. Như một vết dầu, quân đội trước tiên tạo một vết dầu hoàn toàn vững chắc và rồi dần dần lan rộng ra từ đó. Vào mùa xuân 1960, Minh đáp ứng với yêu cầu kế hoạch bình định của người Mỹ với một đề nghị áp dụng chiến lược ‘vết dầu loang’ để mở rộng dần dần vùng lãnh thổ kiểm soát mà người Pháp đã sử dụng ở Morocco. Nhưng cố vấn Mỹ của ông đã bỏ ngoài tai ý tưởng đó, xác nhận rằng Minh chỉ đơn giản không hiểu rõ nhu cầu cho các chiến dịch cơ động nhằm mang chiến tranh đến với kẻ thù.” Mặc dù người Mỹ xem việc tiêu diệt những đơn vị tác chiến của địch là nhiệm vụ bình định chính, Minh, Thơ, và Kim xem chiến tranh mang tính chính trị nhiều hơn là quân sự về bản chất. Điều đó có nghĩa một sự dịch chuyển của miền Nam về lý thuyết lẫn chiến thuật.

Không lâu sau đảo chính, Minh công khai vạch ra kế hoạch bình định mới của mình. Ông bảo các nhà báo tụ tập rằng Ấp Chiến lược thì “tốt về lý thuyết”, nhưng ông đặc biệt loại bỏ chính sách nhà Ngô sử dụng Ấp Chiến lược cho những thủ đoạn có tính toán. Theo Minh, “Nhu dùng Ấp Chiến lược cho mục đích chính trị hơn là bình định,” và “đó là lý do tại sao dân làng phải gánh chịu nhiều khổ sở” Minh cho rằng chính điều này khiến cho dân chúng quay lưng với chính quyền, và nếu không có sự hậu thuẫn của nông thôn chiến tranh không thể thắng.

Mười ngày sau, Minh gặp Rufus Phillips, trưởng bộ phận nông thôn của sứ quán Hoa Kỳ, để trình bày suy nghĩ của ông về công việc bình định. Trong khi Minh “tán thành quan niệm cơ bản” về Ấp Chiến lược, ông cho rằng “điều quan trọng là khớp ấp chiến lược vào trong một quan niệm tổng thể của việc bình định, và hiểu rằng việc bình định, chứ không phải là các sứ mạng tác chiến ngoạn mục…mới là sứ  mạng chính của  lực  lượng quân sự. Rồi Minh vạch ra một thay đổi nền tảng trong chính sách miền Nam; ông sẽ phân chia quân đội thành những đơn vị nhỏ, mỗi đơn vị được giao một lãnh thổ đặc biệt, ông phân tán quyền hành để tăng cường quyền lực cho các chỉ huy đơn vị và viên chức hành pháp địa phương, và trừng trị thẳng tay nạn tham ô địa phương. Hơn nữa, HĐQNCM khước từ lời yêu cầu của Hoa Kỳ cử các cố vấn Mỹ xuống tận mức quận lỵ, vì họ không muốn việc người Mỹ vào làng sẽ biến thành bằng cớ cho bộ máy tuyên truyền của Cộng sản.

Tính sâu sắc của chương trình bình định miền Nam được Minh tái thiết thật nổi bật. Minh chấp nhận học thuyết “vết dầu loang” để mở rộng quyền kiểm soát bằng cách xây dựng tiếp tục hơn là bãi bỏ chương trình ấp chiến lược đang tồn tại. Ông sẽ bảo vệ những ấp còn đang hoạt động, nhưng loại ra việc tái định cư và lao động cưỡng chế, chỉnh lại tiến độ để tránh căng thẳng, và loại bỏ những điều động quân sự đại quy mô. Vào đầu tháng 12, HĐQNCM ban hành một sắc lệnh đến các tỉnh trưởng phải dừng ép buộc các nông dân chuyển vào các ấp kiên cố và tránh cưỡng bách lao động và đóng góp tiền bạc cho chương trình.

Biết được các thắng lợi nhanh chóng của người Cộng sản ở tỉnh Long An, Minh chọn thử nghiệm chương trình bình định mới của mình tại vùng bị bao vây. Tỉnh Long An, một vùng trồng lúa lớn, được thành lập vào năm 1957 và ban đầu nằm ở phía nam và tây Saigon. Hai con đường chính chạy qua tỉnh: Quốc lộ 4, con đường huyết mạch từ nam Saigon đến vùng Châu thổ, và Quốc lộ  5, chạy về hướng đông đến biển. Long An tương đối yên ổn cho đến đầu năm 1960 khi, trong một trận tấn công phối hợp dịp Tết 1960, Cộng sản ám sát nhiều viên chức chính quyền địa phương. Sau khi tái vũ trang một tiểu đoàn chủ lực của tỉnh và vài đại đội cấp huyện, trong vòng 18 tháng, lực lượng Cộng sản đã chinh phục những vùng rộng lớn ở Long An.

Để đáp trả, vào tháng 10 1961 Diệm thay thế tỉnh trưởng dân sự bằng Thiếu tá QLVNCH Nguyễn Viết Thanh. Một người sinh quán Long An, Thanh sẽ leo lên đến cấp bậc thiếu tướng và chỉ huy Quân đoàn IV trước khi chết trong một vụ rơi trực thăng vào năm 1970, một trong những tổn thất thời chiến lớn nhất cho miền Nam.

Sau khi nhận quyền chỉ huy Long An, Thanh phát động một cuộc phản công sử dụng các đơn vị tại chỗ và binh lính chính quy từ Sư đoàn 7, đẩy lùi những đơn vị MTGP ra khỏi nhiều ngôi làng. Cách tiếp cận của Thanh có hiệu quả một thời gian, nhưng vào đầu năm 1963 tình hình chiến sự lại trở nên tồi tệ một lần nữa. Các cán bộ Cộng sản đã tái tổ chức và đem lại sức sống cho các đơn vị bằng những vũ khí mới từ những chuyến tàu biển ngụy trang từ Miền Bắc. Những sự kiện nhanh chóng xuống dốc khi vào tháng 6 1963, Diệm cách chức Thanh vì không chịu chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội sắp đến.

Tuy nhiên, Diệm vẫn ý thức được tình hình an ninh sa sút ở Long An. Vào tháng 9 1963, ông điều Sư đoàn 9 vừa được thành lập gần đây từ quê quán của nó ở Bình Định đến phía bắc vùng Châu thổ.

Rủi thay, việc chuyển sư đoàn 9 để lại một khoảng trống trong tỉnh lỵ duyên hải cực kỳ quan yếu đó, và người Cộng sản sớm chiếm được thế thượng phong ở đó. Nhưng việc chuyển quân cho phép Diệm giao vĩnh viễn phần cực nam vùng Châu thổ cho Sư đoàn 21 và sử dụng Sư đoàn 7 trong một vai trò cơ động hơn ở vùng Châu thổ. Với nhiều đơn vị tác chiến hơn, Diệm ra sức chặn lại đà sụt giảm an ninh ở Long An. Vào ngày 15/10/1963, ông thành lập tỉnh Hậu Nghĩa (phía tây Saigon) bằng cách xáp nhập hai huyện giáp Cao Miên của tỉnh Long An và một huyện của Tây Ninh và một huyện khác của Bình Dương. Bằng cách xáp nhập những vùng không an ninh với nhau thành một đơn vị hành chính duy nhất, Diệm hy vọng tập trung được nguồn lực để giữ vững một khu vực có vấn đề. Rủi thay, cả hai động thái đều thất bại. Hậu Nghĩa vẫn đầy ổ Cộng sản, trong khi vào tháng 11 không đến 40 trong tổng số 219 Ấp Chiến lược ở Long An còn hoạt động. Không có tài lãnh đạo năng nổ của Thanh, các đơn vị  Nhân dân Tự vệ tỉnh không chịu đáp ứng khi một ấp bị tấn công, vì họ sợ chiến thuật phục kích quân tiếp viện của địch. Vào cuối tháng 11, MTGP thực sự đã chiếm vùng nông thôn ở Long An chỉ trừ những thị trấn ở huyện và tỉnh lỵ.

Đó là tình hình mà Minh đối diện vào cuối tháng 11 khi tai họa thình lình ập xuống. Vào đêm 22/11, các lực lượng Cộng sản tràn vào một trụ sở Dân Phòng gần nhà máy đường Hiệp Hòa ở Tỉnh Hậu Nghĩa. MTGP bắt đi 4 cố vấn Mỹ, cùng với  một số lượng lớn vũ khí. Xét các tổn thất tại Hiệp Hòa và một báo cáo nguy cấp từ Earl Young, một sĩ quan USAID phục vụ tại Long An, sứ quán Mỹ hối thúc Minh nhanh chóng tiến hành kế hoạch của mình. Minh lập tức bổ nhiệm Thiếu tá Lê Minh Đảo làm tỉnh trưởng mới ở Long An. Đảo là một sự lựa chọn tuyệt vời. Ông bà nội ông là người Long An, ông đã trải qua thời niên thiếu tại đó, và ông là một sĩ quan hiệu quả và có lý tưởng. Không lâu sau cuộc đảo chính, Minh đã phái Đảo thanh sát tỉnh. Báo cáo của Đảo gây ấn tượng với vị tướng, và Minh bổ nhiệm ông làm tỉnh trưởng vào ngày 24/11.

Để hỗ trợ Minh, Lodge thành lập lực lượng tác chiến sứ quán để tập trung vào Long An. Lodge ra lệnh khảo sát các ấp trong vùng được chọn cho chiến dịch “vết dầu loang” đầu tiên gần thủ phủ tỉnh Long An. Sĩ quan hành quân dã chiến thuộc USIS (Vụ Thông Tin Hoa Kỳ) Frank Scotton tổ chức và cầm đầu ba đội hỗn hợp Việt Mỹ, là những người đầu tiên khảo sát chính tình tại các thôn ấp, thu thập tình hình an ninh, và tìm hiểu thái độ của người nông dân đối với chính quyền. Các đội hỏi thăm 15 ấp, và kết quả thu được thật là xốc. Các phần tử Cộng sản tới lui gần như tùy ý trong dân chúng và trong thôn ấp, và hầu hết dân chúng đều hoặc trung lập hoặc khá thân cộng, một hậu quả do sự yếu kém của chính quyền cũng như do địch vận của MTGP. Giờ đây Minh cần phải ra tay, trước khi toàn bộ tỉnh lỵ sẽ về tay Cộng sản.

Tuy nhiên, việc bình định hoá chỉ là một mặt trong kế hoạch của Minh nhằm đánh thắng cuộc chiến. Trong khi Minh đang tiến hành tái chiếm Long An, ông cũng đang đảo ngược các đối sách chính trị và ngoại giao của Diệm.

THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH

Minh và Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ quyết tâm lấy lại những phân khúc bất mãn chính quyền trong tầng lớp xã hội miền Nam thông qua những cải cách quyết liệt về chính trị và kinh tế. Hai người tìm cách thành lập một liên minh chiếm đa số trong các đảng phái Quốc gia nhằm lôi kéo và rồi chiêu mộ những phân khúc không cộng sản trong MTGP. Họ tin rằng mặt trận đoàn kết này có thể cạnh tranh với Cộng sản về mặt chính trị và quân sự và do đó tăng tốc tiến trình đàm phán để kết thúc chiến tranh. Thủ tướng Thơ báo với sử gia George Kahin rằng “chiến lược của chính quyền mới trước tiên là củng cố khối đoàn kết với Cao Đài, Hòa Hảo, nhóm thiểu số người Miên… và rồi ra sức đưa MTGP ra khỏi lập trường đối kháng để ủng hộ cho điều được gọi là chính quyền hoà giải.” Thơ không nói là một liên minh với MTGP nhưng là mở cửa cho tiến trình chính trị sao cho mọi phe phái miền Nam có thể cạnh tranh quyền lực một cách hòa bình. Liệu quan điểm này có ngây thơ hay không hay liệu Thơ có phải là một thành viên khác trong một hàng dài những kẻ bình phẩm vốn tín rằng một thỏa hiệp giữa MTGP và Saigon có thể đuổi cổ Hà Nội ra ngoài là điều khó xét đoán.

Bước hành động đầu tiên của Mình là lập tức phóng thích mọi nhà sư đang bị giam giữ. Sau đó ông lật ngược lệnh cấm đoán của Diệm về việc tham gia chính trị của Phật giáo. Kết quả là các nhà sư quay ra ủng hộ HĐQNCM về mặt chính trị. Được sự hậu thuẫn tối thiết này, tiếp theo Minh đảo ngược chính sách đàn áp các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài. Ông tìm cách chiêu dụ cả hai làm đồng minh chống MTGP, tin rằng nếu nhận được sự hợp tác của họ, các giáo phái chống cộng sẽ loại trừ MTGP ra khỏi lãnh địa của họ, nhờ đó giải phóng cho các lực lượng QLVNCH có thể tập trung ở nơi khác. Mặc dù đã từng cầm đầu các lực lượng quân đội chính phục Hòa Hảo, Minh nhắm tới giáo phái đó trước tiên. Đến thăm thánh địa Hoà Hảo vào ngày 27/11, một đám đông dân chúng tụ họp nghe ông nói chuyện. Ông cam kết rằng “chính sách tai hại của chế độ trước đây đàn áp các bạn đã kết thúc.” Bước tiếp theo của Minh là thu phục Cao Đài, và vào ngày 27 ông dự một nghi lễ trang trọng tại thánh thất Cao Đài gần núi Bà Đen trên biên giới giáp Cao Miên.

Trong khi Minh làm việc với các quan hệ nội bộ, Lê Văn Kim giám sát các vấn đề đối ngoại. Chính sách đầu tiên của Kim là phục hồi mối quan hệ ngoại giao với Cao Miên. Việc Kim vươn tới Cao Miên có một hiệu quả thứ hai là làm vui lòng thiểu số người Miên đông đảo và thường bị hiếp đáp ở vùng Châu thổ, nhưng phục hồi mối bang giao không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Chủ tịch nhà nước Cao Miên Norodom Sihanouk đã ngưng quan hệ với Saigon vào tháng 8 1963 vì việc bức hại Phật tử. Mặc dù Diệm và Nhu trong thời kỳ đầu trị vì đã ra sức phát triển tình đồng minh thân thiết với Sihanouk, nhưng mối quan hệ chập chờn khi cuộc chiến ở miền Nam tiếp diễn. Đối với Saigon, một Cao Miên không thân thiết sẽ khiến việc đánh bại Cộng sản gần như không thể. Cao Miên nằm trên sườn phía tây của miền Nam, và hai xứ có một đường biên giới dài giữa rừng rậm, chưa được đánh dấu. Vì địa lý tương quan trực tiếp với việc phòng thủ quân sự, một Cao Miên thù địch có nghĩa là kéo giãn nguồn tài nguyên còn hạn chế của Saigon dọc theo một đường biên dài ngoằng và đầy thách thức.

Khi cuộc chiến tiếp diễn vào năm 1960, mối quan hệ với Cao Miên trở nên cực kỳ căng thẳng về vấn đề xâm phạm biên giới, việc kiểm soát các hải đảo, và hoạt động chứa chấp và trang bị vũ khí cho các phần tử Cao Miên bất đồng chống Sihanouk. Khi Sihanouk bác bỏ lời đề nghị của Diệm và Nhu và còn phát ngôn rằng thắng lợi của Cộng sản ở Việt Nam là không tránh khỏi, hai anh em xem Sihanouk như là cố tình phá hoại những nỗ lực của họ nhằm xây dựng một đất nước chống cộng trường tồn.

Kết quả là Nhu bí mật sắp xếp một cuộc đảo chính để lật đổ ông hoàng, hy vọng một nhà cai trị mới sẽ thay đổi chính sách của Cao Miên từ thù địch sang hậu thuẫn công khai. Khi âm mưu thất bại, Nhu tìm cách ám sát Sihanouk. Toan tính đó cũng thất bại, và khi nó bị vạch trần, mối quan hệ sau đó càng trở nên lạnh nhạt.

Trong lúc HĐQNCM còn bức bối trước tuyên bố của Sihanouk về việc trung lập hóa, Kim hy vọng “chấm dứt sự hiềm khích đã chia rẽ hai nước láng giềng Đông Dương” trong thời trị vì của Diệm. Saigon cần nối lại mối quan hệ tốt đẹp với láng giềng của mình, hy vọng có thể thuyết phục Cao Miên đóng cửa biên giới.  HĐQNCM phái một đoàn sứ giả thiện chí đó Kim cầm đầu đến Cao Miên vào giữa tháng 12. Ông đề nghị phân ranh lại đường biên giới vốn chưa được xác lập rõ ràng và đồng ý bãi bỏ quyền sở hữu các hải đảo xa bờ giữa hai xứ có từ thời Diệm. Chuyến đi mở cửa cho chuyến viếng thăm đáp lễ của ngoại trưởng Cao Miên vào cuối tháng. Vậy mà mặc dù có những dấu hiệu đầy hy vọng, mối bang giao giữa hai xứ vẫn còn là vấn đề vì Sihanouk tiếp tục kêu gọi trung lập hóa.

Trong khi đó, Minh tiếp tục những nỗ lực để thành lập một chính quyền dân sự tương lai. Minh tiếp tục tái khẳng định mong muốn thành lập một chính quyền dân sự trong lễ ra mắt của Hội đồng Nhân sĩ vào ngày 2/1/1964. Biểu lộ một sự chính chắn về chính trị mà ít người biết là ông sở hữu, Minh phát biểu rằng “thời điểm sẽ sớm đến khi những định chế dân chủ thiết yếu được thiết lập trên những nền tảng vững chắc, để chúng tôi có thể trao lại quyền lực cho một chính quyền dân sự được nhân dân bầu ra.” Hơn nữa, ông mong muốn hội đồng sẽ soạn thảo một hiến pháp “phân chia rõ ràng các quyền, một đảm bảo hiệu quả cho các quyền tự do cá nhân, và cổ xúy quyền chống đối hợp pháp mang tính xây dựng.” Ông cũng hùng hồn nhận xét rằng “chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu chừng nào mà những trở ngại trên con đường đi tới nền dân chủ vẫn chưa được quét sạch và chừng nào mà chúng ta và con cái chúng ta vẫn chưa tin chắc là mình có thể sống một cuộc sống xứng đáng với con người tự do.”

Tuy nhiên, những bước đi đáng giá mang tính chính trị, quân sự và ngoại giao này đang xảy ra cùng lúc với nỗi bất mãn nội bộ gia tăng đối với Thủ tướng Thơ. Vào ngày 9/12, Minh vội vàng mở cuộc họp báo để bảo vệ Thơ. Báo chí, trước đây bị kềm kẹp nặng nề và giờ thình lình được cởi trói, bắt đầu in ấn những bình phẩm  từ những luận thuyết sâu sắc đến những tin đồn thất thiệt. Các viên chức chính quyền cao cấp miền Nam không quen bị báo chí phê phán phản ứng lại tồi tệ trước những bới móc xoi mói của cánh nhà báo. Tại cuộc họp báo, thay vì trấn an dư luận về Thơ, vị thủ tướng nhanh chóng rơi vào một cuộc tranh luận sôi nổi với báo chí. Thơ phải tự bảo vệ mình chống lại các cáo buộc cho rằng ông đã thất bại trong việc bảo vệ Phật tử trong khi ông đang làm việc cho Diệm và nội các của ông quá thiên về người miền nam .

Đó là lần đầu tiên nhưng không hề là lần cuối cùng mà lời cáo buộc hướng đến thành kiến vùng miền trong chính quyền. Một tuần sau, trong một cuộc họp báo khác Kim bác bỏ tin đồn cho rằng Thơ sắp sửa bị thay thế và rằng vị thủ tướng chỉ đề bạt những người miền nam vào  chính quyền. Mặc dù bác bỏ, các tin đồn vẫn lan rộng cho rằng Kim muốn thay thế Thơ và lên nắm quyền và trung lập hóa đất nước. Sau vụ làm Thơ mất mặt, vào giữa tháng 12 sắc lệnh hạn chế báo chí được áp đặt trở lại và ba tờ báo bị đình bản.

NỖI SỢ TRUNG LẬP HÓA TRỞ LẠI

Nỗi sợ trung lập hóa của người miền Nam, càng trầm trọng thêm khi có sự trở về của các sĩ quan được cho là  thân Pháp, bị khuấy động hơn nữa  vào cuối tháng 11 1963 khi Sihanouk làm sống lại lời kêu gọi trước đây của ông cho một hội nghị kiểu Geneva để hợp thức hóa nền trung lập của đất nước mình. Kế hoạch sau cùng của ông đề xuất một vùng trung lập bán liên bang với miền Nam nếu Saigon ngưng các hoạt động quân sự chống MTGP. Đề nghị của Sihanouk dấy lên nhiều tranh cãi báo chí, nhưng các tướng lĩnh miền Nam không quan tâm nghiêm túc cho đến khi bài xã luận của tờ New York Times số 8/12 khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ nên cân nhắc kế hoạch của Sihanouk. Các tướng lĩnh xem Times như tờ báo đầu đàn phản ánh lập trường chính thức của Hoa Kỳ. Tại cuộc họp báo để hậu thuẫn Thơ, Minh cũng tuyên bố rằng “HĐQNCM bác bỏ mọi khả năng trung lập hóa miền Nam trong khi miền Bắc vẫn còn do Cộng sản thống trị, và ông chống đối việc triệu tập một hội nghị nhằm đảm bảo tính trung lập của Cao Miên.” Kim, tìm cách dập tất những lùm xùm về vụ các sĩ quan lưu vong trở về, cũng phát biểu rằng HĐQNCM sẽ không cho phép người Việt từ Pháp trở về nếu họ “còn về phe Cộng sản và phe trung lập.” Khi người Mỹ không lập tức bác bỏ kế hoạch của Sihanouk, vào ngày 11/12, Minh, Đôn, Kim, và Thủ tướng Thơ cho mời Lodge đến để thảo luận về chính sách của Mỹ. Theo Lodge, các lãnh đạo miền Nam “chỉ ra rằng việc tờ báo có nhiều ảnh hưởng như New York Times chấp nhận đương nhiên lời đề nghị hội thảo trung lập về Cao Miên và thỏa thuận về Việt Nam trước khi có thắng lợi đang gây hậu quả nghiêm trọng đối với tinh thần chiến đấu của người Việt trên mặt trận chống Cộng.”

Lodge cực lực bác bỏ bất cứ kế hoạch nào của Mỹ nhằm trung lập hóa bằng cách đọc trực tiếp một tin điện tử mà Bộ Ngoại giao cung cấp về các chi tiết liên quan đến lập trường chống đối nó của chính quyền Hoa Kỳ. Lời giải thích của ông không có tác dụng. Một viên chức Mỹ cao cấp đến thăm Saigon vào tháng 12 thấy rằng

 những bàn tán về chủ trương trung lập đã lan rộng như đám cháy rừng trên khắp cộng đồng miền Nam. Bài xã luận và những cột báo khác của Times về chủ đề này là một quả đấm vào tinh thần chiến đấu của Saigon.

Lập trường nước đôi của Hoa Kỳ liên quan đến hội nghị về việc trung lập Cao Miên như một điềm không lành cho người Việt Nam. Thậm chí các quan chức cao cấp đặt câu hỏi: có phải tiếp theo là chúng ta? Các tin đồn về việc Pháp công nhận chế độ Bắc Kinh lại đổ thêm dầu vào lửa… Không thể xác định có bao nhiêu người Việt đang nghĩ về việc trung lập hóa như một biện pháp khả dĩ cho những vấn đề của họ. Điều gây sầu não nhất là cảm giác đang tăng lên trong số họ rằng đây có thể là chính sách của Hoa Kỳ và rằng họ tốt hơn nên chuẩn bị tinh thần cho điều đó. Những bảo đảm gần đây từ chúng ta (người Mỹ) không nghi ngờ gì đã giúp tinh hình dễ chịu hơn nhưng phải cần làm nhiều hơn nữa để chỉnh lại chiều hướng này.

Nhận ra rằng mình cần lên án việc trung lập hóa bằng những ngôn từ mạnh mẽ hơn, Minh đồng ý một cuộc phỏng vấn hiếm hoi với tạp chí Saigon Post bản tiếng Anh, một tờ báo chủ là Bùi Diễm. Minh nhấn mạnh rằng chính quyền của ông không “chấp nhận có trong hàng ngũ bất cứ ai muốn đẩy … một giải pháp trung lập mà, chúng ta tin chắc, sẽ mở cổng ngăn lũ cho chủ nghĩa Cộng sản… Chúng ta đánh giá là người Cộng sản đang  dùng đến những vận động trung lập này như một mưu mẹo chiến tranh.” Rồi ông tóm lược những ý kiến của người miền Nam về Hiệp định Lào 1962: “Ví dụ về Lào là một mình chứng hoàn toàn hùng hồn cho chúng ta: việc trung lập hóa xứ sở đó về bản chất là phục vụ cho bọn Cộng sản…mục tiêu của họ là kiểm soát đất nước.” Rồi Minh bác bỏ những nỗ lực của Pháp là “không thể chấp nhận được”.

Dù phản pháo của Minh, người Pháp vẫn không bỏ cuộc. Các tin đồn về Pháp và Trung Quốc được xác minh khi De Gaulle tuyên bố vào đầu tháng giêng 1964 rằng Pháp sẽ chính thức công nhận Trung Quốc. Tình hình càng nóng thêm, vào 18/1/1964 Cục Báo chí Pháp (AFP), cơ quan thông tấn chính thức của Pháp cho in một bài báo dài tựa đề “Chính sách Á châu của Pháp”. Phần bình luận đề nghị rằng việc Pháp công nhận Bắc Kinh là một phần của kế hoạch trung lập hóa Đông Dương. Ngày hôm sau, New York Times cho in một bài phân tích tương tự. Rút nhiều ý từ bài viết của AFP, Times báo cáo rằng “từ quan điểm của chính quyền De Gaulle, giá trị lớn của việc công nhận được cho là hỗ trợ việc giải quyết được  thỏa thuận ở Đông Nam Á. Điều này … giờ đã trở thành lý do chính cho việc công nhận.” Điên tiết, vào ngày 23/1, Hội đồng Nhân sĩ yêu cầu Saigon cắt đứt quan hệ ngoại giao với Paris. HĐQNCM cũng không chấp nhận đại sứ Pháp mới được đề nghị, rút về ứng viên của minh, và âm thầm hậu thuẫn cuộc biểu tình của sinh viên tại sứ quán Pháp. Nỗi sợ hãi đang leo thang về vấn đề trung lập chẳng bao lâu sẽ tạo ra những vang dội chấn động.

NHỮNG ĐỘNG THÁI QUÂN SỰ

Đối mặt với những khó khăn nội bộ và ngoại giao này, khi năm 1964 bắt đầu, Minh phấn đấu chính thức hoá các chiến lược bình định và quân sự để đánh bại cuộc nổi dậy Cộng sản. Thoạt đầu Minh muốn công bố kế hoạch bình định mới của mình, có tên Ấp Tân Sinh, vào đầu tháng giêng, nhưng HĐQNCM không thể hoàn tất các chi tiết. Khi ông đình hoãn việc công bố, dư luận miền Nam cho rằng ông và phe nhóm mình đang dao động. Ông không dao động, biết bao nhiệm vụ to tát đang đối mặt là một lý do khiến việc thi hành nó chậm trễ. Chẳng hạn, trong khi chế độ đang phát triển chiến lược Bình định Quốc gia tích hợp sức mạnh quân sự và dân sự để làm hồi sinh hoạt động đấu tranh nông thôn, nó cũng đang tái thiết lại hoạt động tâm lý chiến. Để cải thiện hình ảnh của Saigon, vào ngày 9/1, HĐQNCM họp tất cả các sĩ quan tâm lý chiến. HĐQNCM dự định phát động một “nỗ lực về thông tin… để báo cáo với nhân dân những việc chính quyền đang thực hiện.” Hoạt động dân sự thăng hoa sẽ là một nhân tố chủ chốt của chiến dịch tâm lý chiến mới, có nghĩa là cung cấp “những lợi ích kinh tế cho người dân ở nông thôn… như một minh chứng rằng chính quyền quan tâm đến phúc lợi của họ.”

Trong khi việc ưu tiên xây dựng nông thôn là một thành tố sống còn của việc bình định, Thủ tướng Thơ phải tìm kiếm chi phí cho nó. Vào ngày 9/1, ông công khai phát biểu vấn nạn của chính quyền: “Chúng ta phải cân bằng một ngân sách hạn hẹp để không đánh thuế người dân, ổn định một thị trường rất dễ bị rối loạn trong khi phải đẩy mạnh sản xuất trong mọi lĩnh vực, tăng cường nỗ lực chống cộng đồng thời phải xây dựng thêm nhiều trường học, bệnh viện và nhà cửa, và tạo nhiều việc làm hơn cho tầng lớp lao động.”

Thông báo của ông làm sáng tỏ một trong những yếu tố tối thiết nhất nhưng bị bỏ qua của cuộc xung đột. Cơ cấu tính thuế cổ lỗ của Saigon không thể cung ứng  tài chính để trả cho chiến phí. Chỉ đứng sau cán bộ tận tụy về tầm quan trọng nền tảng, tiền bạc là chìa khóa để tái thiết việc  bình định và thi hành việc cải cách ruộng đất, từ lâu được được coi là hòn đá tảng nhằm tranh thủ lòng trung thành của nông dân. HĐQNCM đã thiết kế những chương trình lớn để thăng hoa hạ tầng cơ sở thôn làng, vậy mà họ đối mặt với một nghịch lý về kinh tế. Trong khi đây là những quyết định kinh tế thuận lòng dân, nhưng làm cách nào chế độ có thể chi trả cho tất cả ngôi trường và bệnh xá mới? Chỉ có tiền viện trợ Mỹ mới có thể yểm trợ kho bạc của nhà nước. Không có gì ngạc nhiên, cùng ngày với phát biểu của Thơ, Hoa Kỳ và Việt Nam ký hợp đồng  “Thực Phẩm cho Hòa Bình” trị giá 31 triệu đô la, hợp đồng lớn nhất tại thời điểm đó trong lịch sử Hoa Kỳ. 90 phần trăm số tiền thu được từ việc bán lại thực phẩm cho các nhà nhập khẩu Việt Nam sẽ đi vào ngân sách của Saigon. Nhu cầu tiền viện trợ Mỹ của Saigon để xây dựng nông thôn  sẽ không bao giờ được  giải quyết rốt ráo.

Mặc dù HĐQNCM đặt nặng việc duyệt xét các vấn đề xã hội, kinh tế, và ngoại giao của chính quyền, mối quan tâm chủ đạo vẫn thuộc về  cuộc xung đột quân sự. Vào đầu tháng giêng, Thiếu tướng Khiêm đã hoàn tất kế hoạch bình định, gọi là Diên Hồng. Thiết kế của ông là một kế hoạch gồm hai giai đoạn nhằm thắng được cuộc chiến vào cuối năm 1965. Sử dụng kỹ thuật vết dầu loang, quân đội, dùng sự kết hợp giữa lực lượng quân sự và các bộ máy dân sự hoạt động dưới sự chỉ huy của quân đội, sẽ tập trung trước tiên vào việc bình định “những vùng đông dân cư … để tiêu diệt hạ tầng cơ sở của địch, và đẩy lùi lực lượng địch về căn cứ địa bí mật hoặc chiến khu của họ.” Chỉ tiêu là đánh bại sự nổi dậy vào 1/1/1965, trong những tỉnh đông dân nhất quanh Saigon. Sau đó QLVNCH sẽ quét sạch những tỉnh còn lại vào 1/7/1965, tiếp theo Giai đoạn II sẽ tiêu diệt các đơn vị MTGP cuối cùng ở miền Nam vào cuối năm 1965.

Kế hoạch phần nhiều có tính lý thuyết. Một chương trình hành động thực tiễn để “tiêu diệt hạ tầng cơ sở địch” đã không được triển khai, cũng không xác định ai sẽ lấp đầy những vùng đã dọn sạch bị bỏ trống khi QLVNCH chuyển đi để mở rộng vết dầu loang. Kế hoạch của Khiêm cũng chứa đựng những ước tính đáng ngờ về cả lực lượng miền Nam lẫn lực lượng địch. Vào cuối tháng 12 1963, Khiêm đã công khai tuyên bố rằng tình thần QLVNCH lên “rất cao” và rằng quân đội có thể “thắng cuộc chiến vào năm 1965.” Tuy nhiên, kế hoạch mới của ông dựa vào hai giả định không tưởng: các cuộc tấn công của MTGP đã lên đến đỉnh điểm, và sức mạnh của MTGP sẽ sớm tàn lụi. Những giả định như thế không gây ngạc nhiên nếu biết rằng Minh và Thơ tin tưởng trong MTGP có nhiều phần tử không cộng sản. Họ cho rằng lý do tồn tại của mặt trận chống đối đã chết cùng với tổng thống, chẳng bao lâu chỉ còn người Cộng sản trung kiên ở lại với MTGP. Vài tuyên bố của MTGP sau vụ đảo chính nêu rõ rằng lực lượng của họ sẵn sàng buông vũ khí và bước vào  chính quyền liên minh đã lừa được Minh tin tưởng rằng mình có thể cuối cùng tổ chức tuyển cử để thành lập chính quyền đoàn kết.

Không chỉ có Minh và Thơ là người duy nhất đã quỵ  ngã  dưới tiếng hát của mỹ nhân ngư về việc thỏa hiệp và một “giải pháp chính trị” với MTGP. Nhiều người khác cũng tin như vậy, trong đó có những người tả khuynh Pháp lẫn Mỹ. Thậm chí một số người miền Nam chia sẻ quan điểm này, nhưng các phân khúc kiên cường nhất và có tổ chức nhất – như quân đội, tầng lớp ưu tú có học thức, giáo dân Công giáo và các giáo phái  – là những người cực lực chống đối bất kỳ hình thức hòa giải nào với MTGP. “Thậm chí ngay tại thời điểm thành lập MTGP,” chuyên gia về Việt Nam Douglas Pike viết, “những chính trị gia chuyên nghiệp, và lãnh đạo tôn giáo trên khắp đất nước đều đánh giá chính xác. MTGP chỉ là một chiêu bài do Cộng sản khống chế tìm kiếm quyền lực độc tôn cho người Cộng sản.” Việc bác bỏ một thỏa hiệp chính trị bởi tầng lớp trên của xã hội miền Nam  là đặc điểm của chính trị Saigon, và nó sẽ bóp nghẹt hành động của bất kỳ chính quyền Quốc gia nào mềm lòng trước một lời mời cho một giải pháp như thế.

Nếu một thỏa hiệp chính trị với MTGP là một lời nguyền rủa đối với giới quân sự, thế thì tại sao Mình lại giữ một quan điểm trái ngược? Hiển nhiên, đảng Đại Việt không là đảng duy nhất xem Mình là thứ sản phẩm dễ uốn nắn. Niềm tin của Minh đã nhận được sự cổ vũ từ người em trai của ông, một sĩ quan trong Quân đội Nhân dân. Các vị tướng khác không biết rằng vào tháng giêng 1964, em trai Minh, Thượng tá Dương Văn Nhựt, đã bí mật tới thăm ông. Vào năm 1960, Phòng Địch Vận của Cộng sản, cơ quan có nhiệm vụ chiêu dụ những sĩ quan VNCH, “quyết định nhắm đến Minh. Một số nhà lãnh đạo cao cấp của chúng ta nhận ra là, mặc dù Minh là một sĩ quan cấp tướng phục vụ chính quyền Saigon, nhưng ông có một số cá tính cho phép chúng ta có thể bắt liên lạc với ông và chiếm được cảm tình của ông để từ đó có thể dẫn dụ ông vào những hành động làm lợi cho nhân dân và quốc gia.” Việc Minh cắt đứt với Diệm là dịp để Hà Nội mở lối vào, và Nhựt được phái đến để cố vận động ông. Hy vọng là nếu Minh có giành được quyền lực, ảnh hưởng của Nhựt có thể lung lạc các chính sách của Minh. Nhựt trải qua 10 ngày ở Saigon trong tháng giêng 1964, bí mật đến thăm ông. Mục đích của y là “kêu gọi tinh thần yêu nước và yêu đồng bào để Dương Văn Minh có thể hạn chế những hành động “ác ôn” của Quân đội Saigon, và khi cơ hội xuất hiện, ông có thể tiếp tay cách mạng đánh đuổi bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. Nhựt tập trung vào hai chủ đề: “Đế quốc Mỹ” là bọn xâm lược miền Nam, và MTGP “gồm những người Việt Nam yêu nước, kể cả những người không phải Cộng sản, đã tập hợp lại với nhau nhằm chiến đấu chống bọn xâm lược đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước chúng ta.” Trong khi y không thành công trong việc thuyết phục Minh về chính nghĩa của Hà Nội, một cán bộ địch vận cao cấp Cộng sản  tuyên bố rằng Nhựt đã thuyết phục Minh bãi bỏ chương trình Ấp Chiến lược. Minh chỉ đồng ý nếu “cách mạng không phá hoại các bệnh xá, trường học, và hàng rào kẽm gai của ấp.” Khánh đã tuyên bố trong các cuộc phỏng vấn khác nhau thời hậu chiến rằng Minh đúng là muốn dẹp bỏ chương trình Ấp Chiến lược, nhưng điều Mình thực sự dự tính được mặc tình lý giải.

Với việc phe Quốc gia lo sợ chính sách trung lập hóa  thế nào, ta chỉ có thể tưởng tượng các tướng lĩnh khác và người Đại Việt sẽ phản ứng ra sao nếu sự lăng nhăng của ông bị bại lộ. Trong khi các vấn đề khác đã làm đau đầu các vị tướng cầm chịch, nhưng chúng vẫn còn ít quan trọng hơn so với mối đe dọa trung lập hóa, phiên bản của miền Nam về “đường ray thứ ba” trong chính trị. Mặc dù Minh bác bỏ việc trung lập hóa, xuất hiện tin đồn rằng Lê Văn Kim và các vị tướng được Pháp đào tạo khác đang cứu xét nó một cách nghiêm túc. Nếu những nỗ lực của Nhu nhằm mở ra những đối thoại với Hà Nội đã góp phần làm bùng cháy cuộc đảo chính tháng 11, thì bất kỳ ám chỉ nào cho rằng nhóm tướng lĩnh trong hội đồng quân sự có thể phạm vào điều tương tự là đủ để biện minh cho các vị tướng khác đứng lên chống lại họ. Câu nói xưa dạy rằng “cách mạng nuốt chửng những đứa con của nó” cho thấy không ở đâu xác đáng hơn ở miền Nam

https://www.kbchntv.com/47612/guom-da-tuot-ra-noi-mien-dat-xa-xoi-nhung-uoc-mo-tan-vo-cua-mien-nam-phan-3/index.html (Phần 3)

https://kbchntv.com/47740/guom-da-tuot-ra-noi-mien-dat-xa-xoi-nhung-uoc-mo-tan-vo-cua-mien-nam-phan-5/index.html (Phần 5)